Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt – Bài làm 1

Bài thơ Bếp lửa,được Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi anh đang là sinh viên du học tại Liên Xô và mới bắt đầu đến với thơ, Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước như Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Anh Ngọc, Nguyễn Duy… Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, thiên về khai thác những kỉ niệm và ước mơ tuổi trẻ nên gần gùi với lứa tuổi học trò.

Qua dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại những kỉ niệm xúc động về tình bà cháu; đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.

Bài thơ mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỉ niệm trong suốt tám năm ròng tuổi thơ, tác giả được sống bên bà, được hưởng sự chăm sóc, lo toan và tình yêu thương trìu mến bà dành cho cháu. Từ những kỉ niệm êm đẹp ấy, đứa cháu nay đã trưởng thành thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Bài thơ khép lại cũng bằng hình ảnh bếp lửa nhưng là bếp lửa bập bùng trong tâm tưởng, cháy sáng niềm nhớ thương, yêu kính của đứa cháu gửi tới người bà ở quê hương xa xôi.

Tìm hiểu cảm xúc và bố cục bài thơ, ta thấy mạch cảm xúc của tác giả là đi từ hồi tưởng quá khứ đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Bài thơ có thể chia làm bốn đoạn, theo diền biến tâm trạng của nhân vật trữ tình.

Ba dòng đầu là phần mở đầu với hình ảnh bếp lửa, khơi nguồn cho dòng hồi tưởng và cảm xúc về bà.
Bốn khổ tiếp theo là dòng hồi tưởng về những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà và hình ảnh người bà kính yêu gắn liền với hình ảnh bếp lửa quen thuộc.
Hai khổ tiếp theo là những suy ngẫm đầy xúc động của người cháu về cuộc đời bà.

Khổ thơ cuối thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của cháu đối với bà. Dù đã trưởng thành và đang sống xa quê hương, đất nước nhưng cháu không nguôi nhớ về người bà yêu quý.

Trong dòng hồi tưởng của người cháu, những kỉ niệm về bà và tình bà cháu đã hiện lên sống động và cụ thể. Sự hồi tưởng bắt đầu từ hình anh quen thuộc thân thương:

Một bếp lừa chờn vờn sương sớm 
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Đây là hình ảnh không thể thiếu của bức tranh sinh hoạt ở nông thôn tự bao đời, mà người nhóm lửa lại chính là những người bà, người mẹ trong gia đình. Từ ấp iu gợi liên tưởng đến bàn tay kiên nhẫn khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa. Lửa được gìn giữ từ ngày này qua ngày khác bằng đống rấm, trên có chặn một cục đất nung khá lớn có tay cầm. Muôn có lửa, người ta chỉ cần một nắm rơm vo chặt làm mồi, khẽ khơi đống rấm rồi thổi cho ngọn lửa bùng lên. Công việc ấy cứ lặp đi lặp lại hằng ngày, đơn giản thế nhưng không hề nhàm chán mà ngược lại, có một cái gì đó rất đỗi thiêng liêng, xúc động.

Khi tiếng gà báo sáng vang rộn khắp thôn, mặt trời chưa ló dạng, bà đã thức dậy nhóm lửa nấu cơm. Ánh lửa bập bùng soi tỏ bàn tay nhăn nheo của bà, in bóng bà chập chờn trên vách. Khói bếp chờn vờn quyện với hơi sương. Hình ảnh như thực, như mơ ấy đã khắc sâu trong tim đứa cháu. Hai câu thơ gợi lại bao kỉ niệm cua một thời thơ ấu gian khổ, thiếu thốn bên cạnh người bà tảo tần, nhân hậu. Nhớ đến bà, tự đáy lòng nhà thơ bật lên tiếng nói chân thành: Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Trong bốn khổ thơ tiếp theo, tác giả kết hợp khéo léo giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự với trữ tình, làm cho người nghe rung động sâu xa truớc cuộc sống nhọc nhằn của hai bà cháu và hiểu được tình thương tha thiết của người cháu dành cho bà.
Âm hưởng câu thơ bất chợt chùng xuống, trĩu nặng đau thương:

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi 
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945 với hơn hai triệu dân Việt Nam chết đói vì chính sách cai trị dã man của giặc Nhật, giặc Pháp đã bao phủ tuổi thơ tác giả. Hình ảnh Bố di đánh xe, khô rạc ngựa gầy và xóm làng bị giặc đốt cháy tàn cháy rụi đã in đậm dấu ấn buồn thảm trong tâm hồn cậu bé mới lên bốn tuổi. Rồi kháng chiến bùng lên, mẹ và cha đi đánh Pháp bận không về. Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa. Cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà, sớm có ý thức tự lập, sớm phải lo toan:

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe 
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Kỉ niệm về bà và tuổi thơ vất vả luôn gắn với hình ảnh bếp lửa bập bùng, gợi ra những liên tưởng thú vị và độc đáo:

Chỉ nhở khói hun nhèm mắt cháu 
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay !

Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự cưu mang đùm bọc đầy yêu thương chi chút của bà.
Bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu lại gợi thêm một liên tưởng khác. Đó là nỗi nhớ khắc khoải tiếng chim tu hú rộn rã báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cây Tiếng chim khơi dậy những kỉ niệm khó quên:

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế ! 
…Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà 
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Cuộc sông kháng chiến tuy khó khăn gian khổ nhưng bà vẫn vượt qua tất cả để các con yên tâm đánh giặc nơi chiến trường xa:

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !“

Bà là người mẹ, người bà thật chu đáo, tận tình. Bà là hậu phương lớn lao, vững chắc của những người con ngoài tiền tuyến:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen 
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn 
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Đoạn thơ thứ ba là những suy ngẫm của người cháu về bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa hồng quen thuộc. Từ hồi tưởng về tuổi thơ được sống bên bà, người cháu rút ra nhận xét: Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa.

Biết bao tình cảm chân thành gói ghém cả trong câu thơ mộc mạc mà sâu sắc ấy. Nỗi nhớ thương, niềm kính phục, lòng biết ơn của đứa cháu đôi với bà đang dâng lên, xoáy cuộn, thổn thức ở trong lòng. Hình ảnh bà luôn luôn hiện diện cùng hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Có thể nói bà là hình tượng tiêu biểu cho các bà mẹ Việt Nam trong thời kì kháng chiến chông Pháp. Các bà mẹ là người nhóm lửa, củng là người giữ cho ngọn lửa của tình yêu thương luôn ấm nồng và toả sáng trong mỗi gia đình.

Xem thêm:  Suy nghĩ của em về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên

Sự tần tảo, đức hi sinh và lòng nhân hậu của bà được tác giả thể hiên trong một chi tiết rất tiêu biểu:

Mấy chục năm rồi,đến tận bây giờ 
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm 
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm 
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi 
Nhóm nồi xôi gạo mài sẻ chung vui 
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Bếp lửa tay bà nhóm lên mồi sớm mai cũng chính là nhóm lên niềm yêu thương, niềm vui sống, nối quá khứ với hiện tại, tương lai.
Đứa cháu bé bỏng năm xưa giờ đã lớn khôn, được chắp cánh bay xa, bay cao, được làm quen với những khung, cảnh mới mẻ, những niềm vui rộng mở ở chân trời xa, nơi Có ngọn khói trăm tàu  Có Lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả. Tuy thế, cháu vẫn không thể nào quên bếp lửa của bà, tấm lòng đùm bọc ấp iu của bà. Bếp lửa ấy đã thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu, nâng bước người cháu trên suốt chặng đường dài. Cháu yêu bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu dân tộc mình, đất nước mình.

Suốt bài thơ, hình ảnh người bà luôn đi đôi với hình ảnh bếp lửa. Có tới mười lần tác giả nhắc tới bếp lửa và hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh người bà, người phụ nữ Việt Nam muôn thuở với vẻ đẹp tảo tần, nhẫn nại và đầy yêu thương. Bếp lửa là tình bà ấm áp bếp lửa là nguồn sống do tay bà chăm chút. Bếp lửa chứng kiến những khó khăn, gian khổ đời bà. Ngày ngày, bà nhóm lửa cũng là nhóm lên niềm vui, niềm hi vọng nhóm lên sự sống và tình yêu thương dành cho cou cháu và mọi người. Chính vì thế mà nhà thơ đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị, thân thuộc chứạ đựng sự kì diệu, thiêng liêng khó tả:

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa !

Nhà thơ còn nhận ra một điều sâu xa hơn nữa là bếp lửa được bà nhóm lên không chỉ bằng rơm rạ mà còn bằng ngọn lửa từ trong tim – ngọn lửa của lòng yêu thương và niềm tin bất diệt. Bởi vậy, từ hình ảnh bếp lửa, nhà thơ đã chuyển tiếp sang hình ảnh ngọn lửa với ý nghĩa tượng trưng và khái quát rất lớn: 

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Như thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, một ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.

Điểm nổi bật về nội dung, nghệ thuật của bài thơ là sự suy ngẫm, phát hiện ý nghĩa tư tưởng chất chứa dưới bề sâu của các hình tượng thơ. Bài thơ mang một ý nghĩa triết lí tinh tế: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn của cháu đối với bà là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, gắn bó với gia đình và đó cũng là khởi đầu của tình yêu quê    hương, đất nước.

 

Thành công của bài thơ không chỉ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận mà còn ở sự sáng tạo ra hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.

Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt – Bài làm 2

Có những câu ca, bài thơ chỉ chạm nhẹ vào trái tim người đọc nhưng khiến họ nhớ mãi. Đọc thơ Bằng Việt chắc hẳn người đọc sẽ nhận ra được sự lan truyền kì diệu của câu chữ. Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác trong những năm tháng kháng chiến với tình bà cháu gắn bó, ấm áp cùng những gian khổ nhọc nhằn ấu thơ. Bằng Việt đã thổi hồn vào “bếp lửa”, vào thời gian một đoạn hồi ức đẹp đẽ nhất.

Bài thơ “bếp lửa” như tiếng lòng của người cháu dành cho bà suốt những năm tháng ấu thơ vất vả, bộn bề lo âu. Hình ảnh “bếp lửa” gần gũi, bình dị trong mỗi gia đình Việt Nam thời xưa nhưng dường như có sức ám ảnh và lay động tác giả. Vì bếp lửa gắn với bà, gắn với kỉ niệm ấu thơ không thể phai nhòa.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa

Điệp từ “một bếp lửa” có sức chứa đựng tình cảm và cảm xúc rất lớn và chân thành, thôi thúc tác giả luôn có một nỗi nhớ thường trực ở trong đó. Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn” và “ấp iu” diễn tả sự gắn bó, không thể tác rời. Một loạt những ký ức về bà, về kí ức ngày xưa cứ thể dội về mạnh mẽ. Khiến tác giả phải thốt lên “ôi”. Một từ “ôi” mang nặng ân tình, thiêng liêng, nồng đượm biết bao nhiêu. Hẳn rằng Bằng Việt đã có những năm tháng đáng nhớ, đáng trân trọng bên cạnh bà. Kí ức cứ thế ừa về:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay

Một tuổi thơ nhọc nhằn, vất vả bên cạnh bà. Một câu bé bốn tuổi đã quá thân thuộc với mùi khói ở bếp lửa. Đất nước rơi vào ách thống trị thực dân, tình cảnh nạn đói thê thảm là điều không tránh khỏi. Khói bếp tuổi thơ đã “hun” đầy trong khóe mắt, hun cả một vùng trời tuổi thơ nhọc nhằn. Chữ “cay” ở cuối câu thơ như lắng lại, gieo vào lòng người nỗi buồn man mác. Là sống mũi ‘cay” hay là tuổi thơ cay cực, là thương bà, thương bố mẹ hay thương bếp lửa tần tảo sớm hôm.

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế

“Tám năm ròng” là thời gian dài đằng đẵng, thời gian tuổi thơ của cháu nhọc nhằn bên cạnh bà. Bà và cháu cùng nhóm lửa, nhóm lên sự sống và nhóm lên tình yêu thương vô bờ bến. Tiếng “tu hú” trở đi trở lại trong đoạn thơ rất nhiều khiến cho nhịp thơ da diết, bồn chốn. Tu hú gọi hè, tu hú gọi lúa chín, gọi cả những giấc mơ của cháu về tương lai đât nước hòa bình độc lập.

Xem thêm:  Suy nghĩ về câu nói: Nơi lạnh nhất không phải Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương

Mẹ cùng cha công tác bận khồng về

Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe’

Ba dạy cháu làm bà chăm cháu học’

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa

Một khổ thơ cảm động. Một khổ thơ cảm xúc được bật ra sau bao nhiêu năm kìn nén ở trong. Năm tháng sống bên cạnh bà tuy khó nhọc nhưng tràn đầy ân tình. Cậu bé nhỏ thương bà khó nhọc bên bếp lửa, thương cho bà một mình nuôi cháu. Và tiếng kêu của tu hú lại khiến cho tâm sự của người cháu trở nên nặng nề hơn.

Tình bà cháu trong đoạn thơ này thực sự khiến người đọc chùng lại, rưng rưng nước mắt. Đất nước chìm trong bom đạn nhưng bà vẫn luôn chở che, chăm lo cho cháu từ bữa ăn đến giấc ngủ. Còn tình cảm nào thiêng liêng và cao cả hơn nữa.

Nhưng chiến tranh đã cướp đi bao nhiêu thứ, máu và nước mắt, cả tình yêu

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh

Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bào nhà vẫn được bình yên

Đức hi sinh cao cả của người mẹ dành cho con, của người bà dành cho cháu. Dù gian khổ, dù mất mát nhưng hậu phương luôn phải là chỗ dựa vững chắc và bình yên nhất cho tiền tuyến. HÌnh ảnh người bà trong đoạn thơ này đầy đức hi sinh cho gia đình, cho tổ quốc. Lời dặn dò của bà đối với cháu nặng tựa nghìn non, chất chứa nghĩa tình sâu đậm. Bà yêu thương cháu, thương con, thương cho đất nước lầm than.

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngon lửa chứa niềm tin dai dẳng’

Nhóm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo sẻ chung đôi

Từ “bếp lửa” tác giả đã chuyển thành “ngọn” lửa như nâng tầm cao hơn của tình yêu và sự hi sinh của người bà. Bà vẫn luôn nhen nhóm yêu thương, một tình yêu chung và riêng bao la, bất diệt.

Khổ thơ cuối cùng là thời điểm trở về thực tại của tác giả, giống như là một chuyến đi trở về tuổi thơ. Giọng thơ chùng xuống, cảm xúc nghẹn ngào:

Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa

Đứa cháu nhỏ của bà giờ đã trưởng thành, đến một đất nước xa xôi cách bà nửa vòng trái đất nhưng những ký ức tuổi thơ đó luôn là điều thiêng liêng mà cháu luôn trân quý. Nhắc nhở bản thân không được phéo quên đi. Nhắc nhớ kí ức luôn sống mãi, không quên.

Bài thơ “Bếp lửa” với câu từ giản dị,, cách viết nhẹ nhàng nhưng dường như khiến người đọc thấy cay cay ở khóe mắt. Một bài thơ tràn đầy tình yêu, tràn đầy hạnh phúc giữa đắng cay cuộc đời.

Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt – Bài làm 3

“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”

Câu ca dao như thay lời nói của tất cả mỗi người con xa quê.Xa quê hương ai cũng nhớ quê hương mình với những hình ảnh quen thuộc cây đa,giếng nước,sân đình,…nhớ những món ăn giản dị bình thường của quê hương : canh rau muống,cà dầm tương.Nhớ những người thân yêu trong gia đình.Chính nỗi nhớ về quê hương thân yêu đã khơi nguồn mạch cảm xúc cho biết bao nhà thơ.Cũng từ hình ảnh “ bếp lửa” quen thuộc gần gũi của gia đình mà Bằng Việt đã cho ra đời bài thơ rất đặc sắc “ Bếp Lửa”.

Sống xa quê hương,sinh sống và học tập bên nước bạn xa xôi Nga.Bằng Việt luôn nhớ về mảnh đất quê hương của mình nơi chôn rau cắt rốn,nơi anh cất tiếng khóc chào đời.Và anh nhớ nhất là hình ảnh “ bếp lửa” quen thuộc gần gũi trong gia đình.Đặc biệt hơn,hình ảnh ấy gắn liền với hình ảnh người bà thân yêu của anh.

“ Bếp lửa” là hình ảnh tập trung xuyên suốt cả bài thơ,là nguồn cảm hứng khơi dậy tình cảm bà cháu gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà trong chiến tranh.Bằng Việt đã nhắc tới hình ảnh bếp lửa mười lần và mỗi lần đều hiện lên những kỷ niệm về bà.Mỗi khi nhắc đến bếp lửa là cháu lại nhớ tới bà.Nhớ những buổi sớm mai bà dậy sớm nhóm lửa:

“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Mỗi sớm mai khi giọt sương còn ngưng đọng,bà đã dậy và nhóm lên bếp lửa “ chờn vờn” rung rinh hắt lên trên tường nhà liếc cửa.Hình ảnh  bếp lửa “ chờn vờn sương sớm” vừa rất thực: là hình ảnh ngọn lửa bập bùng hắt lên vách mỗi buổi sớm mai,lại vừa có cảm giác như là hình ảnh được bao phủ bởi sương khói hoài niệm.Cũng giống như Bằng Việt khi xa gia đình Xuân Quỳnh cũng rất nhớ người bà kính yêu của mình,trong một lần hành quân khi nghe tiếng gà cục tác quen thuộc bao kỷ niệm tuổi thơ thời thơ ấu trong Xuân Quỳnh được khơi dậy được đánh thức:

“ Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ
Cục…cục tác cục ta
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”
( Tiếng gà trưa).

Từ hình ảnh bếp lửa quen thuộc thân thương đã gợi trong long Bằng Việt kỷ niệm về tuổi thơ nghèo đói gian khổ bị đè nặng bởi bóng đen của cái đói năm 1945:

“ Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khỏi hun nhèm mắt cháu”

Kỷ niệm đói nghèo “ đói mòn đói mỏi” năm 1945 làm sao Bằng Việt quên được.Cái vị cay xè của khỏi hun nhập nhèm lùi lụt gợi những năm tháng dân ta lầm than đen tối.Kỷ niệm đắng cay ấy như một vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai.

Suốt tuổi thơ tám năm dòng cháu được sống và lớn khôn trong cánh tay của bà,được cùng bà nhóm lửa mỗi sớm mai.Tiếng kêu tha thiết của tiếng chim tu hú trên những cánh đồng xa gợi nhớ gợi thương bao câu chuyện về bà:

“ Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”
Hay “Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”.

Tiếng tu hú là âm thanh của đồng quê nó đã trở thành một mảnh tâm hồn của tuổi thơ.Tiếng chim quen thuộc đó đã khắc sâu trong tâm khảm của đứa cháu.Bởi tiếng chim gắn với những câu chuyện của bà kể về những ngày ở Huế,gắn với tình cảnh vắng vẻ nhớ mong của hai bà cháu trong khi ba mẹ sống xa nhà.Tuy sống xa cha mẹ nhưng Bằng Việt được bù lại là được sống trong tình cảm yêu thương mà bà dồn cho cháu.Bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu,bao khó khăn vất vả bà đã kiên trì vượt qua để chăm sóc nuôi dưỡng cháu,bà vừa là cha vừa là mẹ vừa là người thầy của cuộc đời cháu:

Xem thêm:  Suy nghĩ về quan điểm: Có ba điều làm hỏng một con người: rượu, tính kiêu ngạo và sự giận dữ

“ Cháu ở cùng bà,bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học”.

Mang nặng công ơn của bà trong tâm hồn cháu hình ảnh bà hiện lên không bao giờ phai màu.Tiếng chim tu hú với hình ảnh người bà kết hợp hài hòa đã khắc sâu nỗi nhớ thương da diết,nỗi bồn chồn trong tâm tưởng và ký ức:

“ Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”

“ Bếp lửa” còn gợi lên trong kí ức của đứa cháu cảnh giặc tàn phá xóm làm tan hoang nó cũng hằn in như một vết cứa xót xa:

“ Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”

Với những dòng thơ chân thực như chính cuộc sống đang hiện lên ấy,cứ để nguyên khối,chẳng cần phân tích,lý lẽ nhiều lời chúng ta vẫn thấm thía vẻ đẹp tinh thần của cả một thế hệ người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.Dù cuộc sống có khó khăn vất vả,chiến tranh còn tàn phá nặng nề làng bị đốt “ cháy tàn cháy rụi”. Nhưng vẫn ánh lên ở đó tinh thần đoàn kết tương thân tương ái của những người hàng xóm,những người hàng xóm đã giúp đỡ bà dựng lại “ túp lều tranh” để hai bà cháu có chỗ che mưa che nắng.Và đặc biệt hơn ta thấy được ở đó ý chí nghị lực của người mẹ,của người bà hậu phương:

“Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”.

Bản lĩnh sống của người bà thật lớn lao,một mình bà đã vượt qua mọi gian lao vất vả để bảo vệ chăm sóc cho đứa cháu,để cháu có được cuộc sống bình yên.Căn nhà của hai bà cháu bị đốt tuy đã được hang xóm giúp đỡ dựng lại nhưng cuộc sống rất vất vả.Vậy mà bà vẫn vững lòng dặn đứa cháu yêu của mình khi viết thư cho bố cứ bảo rằng gia đình vẫn được bình yên.Thái độ “ bà dặn cháu đinh ninh” đã cho ta thấy được ý chí nghị lực của bà rất lớn.Bà sẵn sang vượt qua mọi thử thách của cuộc sống.Căn nhà được dựng lại và bà vẫn tiếp tục công việc quen thuộc của mình:

“ Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa long bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”

Câu thơ giờ đây không phải là bếp lửa nữa mà nó đã thay cho “ ngọn lửa”.Bếp lửa mà hang ngày đôi bàn tay già nua của bà nhóm lên giờ đã không còn.Nó đã thay cho ngọn lửa chứa niềm tin,tình yêu thương.Ngọn lửa của bà luôn “ ủ sẵn” để dành cho con cháu.Ngọn lửa ấy có sức sống mạnh mẽ bền bỉ mãnh liệt “ dai dẳng” suốt cuộc đời bà và được “ bà nhen” mãi mãi sáng bừng bất diệt.Điệp ngữ “ một ngọn lửa” và kết cấu xong hành đã làm cho giọng thơ nâng lên mạnh mẽ đầy xúc động tự hào.Tình thương đức hi sinh tính kiên trì nhẫn nại của bà,của mẹ mãi làm bừng sáng ngọn lửa vĩnh cửu truyền cảm ấy.

Bà là chỗ dựa là mái ấm tình thương của cháu.Thức khuya dậy sớm vì hạnh phúc của cháu đã trở thành thói quen suốt “ mấy chục năm” trong cuộc đời bà:

“ Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”

Cuộc đời từng trải bà luôn cần mẫn lo toan tảo tần chịu khó cho cuộc sống ấm no của cháu.Công việc mỗi sớm mai thức dậy nhóm bếp lửa đã trở thành thói quen thành nét đẹp của đời bà.Suốt đời bà hy sinh để che chở đùm bọc cho con cháu cho thế hệ mai sau của mình.Chính bà đã nhóm lên bao vẻ đẹp trong tâm hồn của cháu:

“ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa”

Bà là suối nguồn của ấm no hạnh phúc là tình thương của tuổi thơ.Bếp lửa mà bà nhen nhóm một đời người là ngọn lửa kỳ lạ và thiêng liêng.Bếp lửa luôn “ ấp iu nồng đượm” tình thương của bà dành cho cháu rất bao la,thắm thiết mặn nồng.Tình thương hay ngọn lửa mà bà nhen nhóm không phải củi tre mà được nhóm lên từ ngọn lửa trong long – ngọn lửa của sự sống long yêu thương và niềm tin.Vì thế bà nhóm bếp lửa cũng là nhóm niềm yêu thương bà truyền cho cháu,nhóm cả “ nồi xôi gạo mới xẻ chung vui”  bà mở rộng trong cháu tấm long đoàn kết gắn bó với bà con trong làng xóm quê hương.Và hơn hết bà đã khơi dậy trong tâm hồn cháu sức sống mãnh liệt để khi cháu khôn lớn được đi xa được thấy “ ngọn lửa trăm tàu,lửa trăm nhà,niềm vui trăm ngả” vẫn luôn nhớ về công lao to lớn của bà.Bà là biểu tượng cho lớp cha ông truyền lửa của sự sống long yêu đời niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.

Bài thơ “ bếp lửa” của Bằng Việt đã rất thành công với hình ảnh bếp lửa và đặc biệt là: “ Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa”

Bếp lửa gần gũi thân thương trong mỗi gia đình nhưng cũng thật kỳ lạ thiêng liêng.Bếp lửa đã khơi dậy bao kỉ niệm trong tâm hồn đứa cháu về hình ảnh người bà tần tảo lam lũ vất vả.

Tóm lại, “Bếp lửa” là bài thơ giàu hình ảnh độc đáo và đa nghĩa.Qua hình ảnh “ bếp lửa” ta cảm nhận được bếp lửa là một vật tuy nhỏ bé đơn sơ nhưng chứa đựng bao ý nghĩa.Bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và đặc biệt bếp lửa đã gợi lên bao kỉ niệm về tuổi thơ gắn liền bên cạnh người bà.

 

 

Nhận thông báo qua email
Nhận thông báo cho
guest
0 Góp ý
Inline Feedbacks
View all comments
DMCA.com Protection Status