[Văn mẫu học sinh giỏi] Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận
Dàn ý chi tiết:
1. Mở bài:
Tác giả: Huy Cận (1919 – 2005), tên thật là Cù Huy Cận, quê Hà Tĩnh.
Tác phẩm:
+ Tràng giang được viết vào mùa thu 1939 và in trong tập lửa thiêng. Đây là một trong những nhà thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Huy cận.
+ Bài thơ được gợi cảm hứng từ cảnh sống Hồng mênh mông sóng nước.
2. Thân bài:
Ý nghĩa nhan đề:
– Tràng giang và trường giang đều là từ Hán Việt
+ Trường giang nghĩa là sông dài.
+ Tràng giang nghĩa là sông dài và rộng, với vần “ang” đã tạo dư âm vang xa trầm buồn, gợi một nỗi buồn mênh mang.
Ý nghĩa lời đề từ:
– Lời đề từ đã thâu tóm khá chính xác và đầy đủ tâm trạng của nhà thơ trước cảnh trời rộng, sông dài.
Khổ 1: Nỗi buồn trước cảnh sông nước mênh mông.
* Câu 1,2:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.”
– Sóng gợn, gợi tả những vòng xoáy đang lan ra đến vô tận như nỗi buồn âm thầm mà da diết của tác giả.
– Nghệ thuật điệp vần “ang” kết hợp với điệp từ “điệp điệp” tạo dư âm vang xa trầm buồn.
– Con thuyền lẻ loi, cô đơn, xuôi dòng phó mặc cho dòng nước làm cho bức tranh sông nước càng trở nên hiu quạnh, mênh mông.
*Câu 3, 4:
“Thuyển về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
– Với bút pháp nghệ thuật đối lập: Thuyền về >< nước lại gợi cảm giác chia lìa tăng thêm tâm trạng buồn.
– “Sầu trăm ngã” là khối sầu thỏa trăm ngã của đất trời.
– Nỗi buồn tăng cấp lên, ban đầu là buồn, rồi đến sầu.
– Củi một cành khô lạc mấy dòng: với nghệ thuật đảo ngữ cùng với hình ảnh nhỏ nhặt tầm thường nhưng lại có sức gợi rất lớn. Gợi thân phận kiếp người nhỏ bé trôi nổi lạc loài vô định.
Khổ 2: Nỗi buồn trống vắng đìu hiu.
– Bức tranh thiên nhiên ở khổ 2 điểm thêm vài chi tiết như cồn, gió, làng, chợ, bến.
– Với nghệ thuật từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi sự hoang sơ, vắng vẻ, buồn bã.
– Có âm thanh của sinh hoạt cuộc sống đời thường “làng xa, chợ vãn” nhưng ở đâu nghe mơ hồ xa xôi quá.
– Với nghệ thuật đối ý, nắng xuống>< trời lên gợi sự chuyển động, không gian càng thêm mênh mông, rộng lớn.
– Cụm từ “sâu chót vót” gợi một độ sâu hun hút khôn cùng và độ cao vô tân. Đó cũng là cái nhìn tâm tưởng của nhà thơ, nhà thơ đứng trơ trọi giữa vũ trụ thăm thẳm và nhìn xuyên vào mặt đất ruột trời.
“Sông dài trời rộng bến cô liu”
– Gợi sự trơ trọi, nhỏ bé của bến kia và đó cũng chính là cái tôi mang nỗi sầu vạn kỉ của nhà thơ, ông như bến kia bơ vơ giữa cuộc đời bao la rộng lớn.
=> Không gian vô cùng, cảnh vật vắng lạng gợi cho con người cảm giác cô đơn, lẻ loi với nỗi buồn xa vắng.
Khổ 3: Nỗi buồn bơ vơ
– “Bèo dạt về đâu”: hình ảnh gợi một kiếp người trôi nổi lênh đênh vô định chẳng biết dạt về đâu, và câu thơ thứ nhất cũng chính là hình thức câu hỏi tu từ.
– Kết hợp với hình ảnh ấy là bờ xanh tiếp bãi vàng gợi sự mênh mông vô tận của đất trời.
– Trong bức tranh thiên nhiên, không có 1 chuyến đò, cái cầu nhằm khẳng định không có bóng dáng con người, của sinh hoạt đời người.
=> Nhằm tô đậm nỗi khát khao tình người, tình đời của tác giả.
– Với nghệ thuật từ láy “mênh mông”, “lặng lẽ” gợi nỗi buồn hiu quạnh và trống vắng, thể hiện sự cô đơn của con người.
=> Khổ thơ thể hiện nỗi buồn trước cảnh vật và song hành với nó là nỗi buồn cuộc đời tác giả.
Khổ 4: nỗi nhớ nhà.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”
– Những lớp mây chồng xếp lên nhau tạo thành núi mây giống như nỗi buồn đang tích tụ trong lòng tác giả hết lớp này đến lớp khác.
– Hình ảnh cánh chim là tín hiệu là tín hiệu để báo hoàng hôn, với Huy Cận, nó là biểu tượng của cái tôi cô độc nhỏ nhoi trước cuộc đời.
– Với nghệ thuật đối lập giữa vụ trụ bao la rộng lớn với cánh chim nhỏ bé đơn độc nhằm tô đậm sự lạc loài, nhỏ bé của cuộc đời nhà thơ.
– Đến 2 câu thơ cuối, tác giả đã nhấn mạnh không cần “khối sóng trên sông” như hai câu thơ của Thôi Thiệu thì tác giả vẫn thấy nhớ quê hương của mình.
=> Điều đó chứng tỏ nỗi nhớ của tác giả luôn tha thiết thường trực và cháy bỏng. Đó là tấm lòng yêu quê hương, đất nước, kín đáo và thiết tha của nhà thơ.
3. Kết bài:
– Bài thơ thể hiện cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha.
– Màu sắc cổ điển, giọng điệu gần gũi, thân thuộc.
Bài văn tham khảo:
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ Mới, thơ ông có một bản sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội cũng như triết lí. Thơ Huy Cận mang một nỗi buồn sâu lắng, miên man, ảo não và thảm hại; nỗi buồn của “đêm mưa”, của “người lữ thứ”, nỗi buồn của “quán chật đèo cao”, của “trời rộng sông dài”. Tràng giang là một trong số đó,bài thơ mang phong vị Đường thi khá rõ. Đây là bài thơ được cảnh sông nước mênh mông của công Hồng gợi tứ. Huy Cận đã có lần tâm sự: “Tôi có thú vui thường vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng và Hồ Tây. Phong cảnh sông nước đẹp, gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhên bài thơ không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương”.
Huy Cận, đây là một bài thơ tình, tình gặp cảnh tình sầu nên cảnh cũng sầu. Nhan đề của bài thơ có tên Tràng giang đã vẽ lên trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên cổ kính, cổ điển với hai âm Hán – Việt vừa có ý nghĩa gợi mở, vừa tạo nên sự u buồn dai dẳng và nặng nề, cứ triền miên trong tâm thức tác giả. Tràng giang hay còn gọi là trường giang là một từ Hán Việt ý chỉ con sông dài. Nhưng tác giả lại lấy tên Tràng Giang chứ không phải trường giang. Bởi vốn dĩ Trường giang chỉ có ý nghĩa chỉ con sông dài đơn thuần như thế, nhưng ngược lại Tràng giang vừa nói con sông dài mênh mông, vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của chính tác giả.
Nỗi sầu buồn mênh mang bao trùm cả không gian, thời gian thấm tỏa vào cả linh hồn tạo vật. Vào những buổi chiều tà, trên những bãi sông, nhà thơ thường đứng trầm tư để cho lòng mình bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Lời đề từ còn thể hiện rõ âm điệu, xúc cảm của bài thơ. Tràng giang là bài thơ có âm điệu buồn, có sự hài hòa giữa cảnh và tình. Đồng thời lời đề từ còn thể hiện tình yêu quê hương dất nước thầm kín trong tâm hồn Huy Cận nói riêng, của một thời đại trong thi ca nói chung.
Trong không gian sông nước mênh mông hiện lên trong nỗi buồn liên tưởng của tác giả
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.”
Tràng giang dài rộng đang trải ra từng đợt sóng điệp điệp không dứt. Động từ gợn diễn tả làn sóng nhẹ nhàng có vẻ mong manh, mơ màng nhưng lại lan mãi không thôi. Nó gợi được nỗi buồn da diết khôn tả của thi nhân. Nghệ thuật điệp vần “ang” kết hợp với điệp từ “điệp điệp” tạo dư âm vang xa trầm buồn. Con thuyền lẻ loi, cô đơn, xuôi dòng phó mặc cho dòng nước làm cho bức tranh sông nước càng trở nên hiu quạnh, mênh mông.
Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hòa nhập, giao cảm, Huy Cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la.
“Thuyển về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Hình ảnh sông nước mênh mang cùng con thuyền nhỏ nhoi giữa dòng tạo nên sự đối lập gợi cho ta cảm giác cô đơn da diết. Từ xưa đến na, thuyền và nước là hai hình ảnh luôn luôn gần gũi, gắn bó. Vậy mà ở đây. con thuyền lênh đênh mà dòng nước mênh mông như có một nỗi buồn chia lìa xa cách đương đón đợi
Những con thuyền đã về hết, chủ còn dòng sông mênh mông sóng nước. Vì thế, cảnh dễ gợi nỗi sầu trăm ngã – mối sầu thỏa trăm ngã của đất trời. Giữa con sông mênh mông nặng dòng nước sầu buồn chia li, trăm ngả gợi lên sự chia lìa cách biệt ấy hiện lên một cành củi khô củi một cành khô lạc mấy dòng trôi dạt lạc lõng bơ vơ, không biết rồi sẽ đi đâu về đâu trong dòng sông mông lung vô định.
Đến khổ thơ thứ hai, tác giả đi sâu vào việc miêu tả chi tiết nỗi buồn, cái buồn giờ không còn lang thang vô định trên sông nữa mà đã tấp vào một còn đất nhỏ.
Hai từ láy lơ thơ, đìu hiu được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Lơ thơ diễn tả những dáng cây nhỏ nhoi, mỏng, thưa thớt trên cồn bãi, đồng thời gợi lên sự xuất hiện đơn độc lẻ loi, đượm chút ngơ ngác của những bài cồn giữa dòng Tràng giang bát ngát. Đìu hiu nói về hơi gió nhẹ đưa nỗi buồn lan tỏa khắp đất trời. Đâu đó có âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi đâu như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là đâu có, một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Bức tranh Tràng giang tuy có cồn đất, có nắng, có bến, có làng, có chợ nghĩa là có hơi tiếng con người đấy nhưng vẫn không át được cảm giác tàn tạ, hiu hắt, quạnh vắng, buồn bã mênh mang. Bởi không gì buồn bằng cái chợ chiều tan tác.
“Nắng xuống trời lên cao chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Không chỉ là vòm trời phản chiếu vào lòng sông mà còn gợi lên nỗi buồn cô đơn không đáy của hồn người trước cái vũ trụ vô cùng. Con người càng nhỏ bé cô đơn, bơ vơ hơn giữa vũ trụ bao la. Đây là tâm lí tự nhiên của con người khi đứng trước vũ trụ vô thủy, vô chung:
“Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa tới
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ”
Ám ảnh về sự lênh đênh, phiêu bạt và khát khao giao cảm
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Lênh đênh không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là hàng nối hàng. Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là bờ xanh tiếp bãi vàng như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hòa, nối kết.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định… không …không để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào. Khổ thơ thể hiện nỗi buồn trước cảnh vật và song hành với nó là nỗi buồn cuộc đời tác giả.
Nỗi buồn của Huy Cận dần lan tỏa trong không gian thiên nhiên đến không gian tâm trạng. Đằng sau bức tranh thiên nhiên hùng vĩ của lớp lớp mây cao đùn đùn núi bạc lại là nỗi lòng thi nhân. Từ buồn điệp điệp, sầu trăm ngả ở những khổ thơ trên, đến đây nỗi sầu thi sĩ đã dâng đến trùng trùng, lớp lớp tràn ngập cả bầu trời. Từ lớp lớp diễn tả nhiều lớp kế tiếp nhau, lớp nọ liền lớp kia đều đặn không dứt. Đùn diễn tả những đám mây và cũng là nỗi sầu tự mở ra, liên tiếp như có một sức đẩy từ bên trong. Đúng là: Sầu đong càng lắc càng đầy. Câu thơ Huy Cận làm ta liên tưởng đến câu thơ đến câu thơ dịch trong bài Thu hứng nổi tiếng của Đỗ Phủ: Mặt đất mây đùn cửa ải xa. Cánh chim nhỏ biểu hiện của sự sống, khát vọng ước mơ bay liệng tuy có gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật những vẫn không với được nỗi buồn của thi nhân. Bởi cánh chim chiều trong thơ Huy Cận có nét đặc sắc riêng của nó. Đến đây, nỗi sầu dâng kín Tràng giang và từ trời cao đổ xuống cánh chim yếu ớt rồi thấm sâu vào cõi lòng nhân thế:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Dợn dợn vời con nước vừa là hình ảnh vừa là tâm trạng. Nó vừa diễn tả sóng lan ra vừa gợi cảm giác nỗi buồn lạnh lẽo u uẩn trải ra vời vợi không nơi bám víu. Sông vốn dài rộng càng thêm rông mênh mông lại gặp lúc hoàng hôn đang xuống gợi nỗi buồn cô đơn da diết. Nỗi buồn của nhà thơ trong chiều sâu thẳm của nó cũng có nguyên nhân rất cụ thể. Đó là nỗi buồn của người xa quê chạnh lòng nhớ tới quê hương xứ sở. Câu thơ cuối càng khẳng định điều đó: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Điều đó chứng tỏ nỗi nhớ của tác giả luôn tha thiết thường trực và cháy bỏng. Đó là tấm lòng yêu quê hương, đất nước, kín đáo và thiết tha của nhà thơ.
Với màu sắc cổ điển, giọng điệu gần gũi, thân thuộc, bài thơ đã thể hiện cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha.
Thái Lê Vân