[Văn mẫu học sinh giỏi] Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
+ Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam.
+“Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. “Việt Bắc” chính là khúc tình ca, khúc tráng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu đất nước, niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, truyền thống ân tình, ân nghĩa, đạo lí thủy chung của dân tộc Việt Nam.
2. Thân bài
LĐ1: Khái quát
LĐ2: Nội dung phân tích
– Tình nghĩa thủy chung sâu nặng của cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc. (Từ đầu đến “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”)
+ Mình về mình có nhớ ta/ Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Hai đại từ nhân xưng “mình – ta” được sử dụng một cách ngọt ngào sâu lắng thấm đậm chất ca dao. “Mình” là chỉ người ra đi, “ta” là chỉ người ở lại.
Cụm từ “mười lăm năm” là trạng ngữ chỉ thời gian, chỉ độ dài gắn bó nhớ thương vô hạn giữa người đi kẻ ở. Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm giữa Việt bắc và người cán bộ thật chung thủy sâu nặng, keo sơn bền chặt.
+ “Bâng khuâng” nghĩa là nhớ nhung luyến tiếc, vui buồn lẫn lộn, “bồn chồn” là từ láy diễn tả tâm trạng cảm xúc day dứt, hồi hộp, nôn nao trong lòng khiến cho bước chân đi cũng ngập ngừng, bịn rịn không muốn chia xa.
+“Áo chàm” là hình ảnh hoán dụ chỉ nhân dân Việt Bắc trong buổi tiễn đưa.
+“Cầm tay” là biểu tượng của tình yêu thương đoàn kết.
+ Sáu câu hỏi của người ở lại khơi sâu vào những kỉ niệm về một chiến khu gian khó mà nghĩa tình, thủy chung.
Điệp từ “nhớ” lặp lại 5 lần
=> Nỗi nhớ vang lên gọi về bao kỉ niệm khiến người đọc không cảm thấy đây là cuộc phân li, mà là nỗi nhớ đã thắt chặt mọi người trong một hồi ức chung đẹp đẽ.
+ Bốn câu thơ cuối cùng của đoạn thơ là sự khẳng định mối tình bền chặt
– Việt Bắc được tái hiện trong nỗi nhớ cảnh, nhớ người (tiếp đến “Chày đêm nện cối đều đều suối xa”)
+ Sự hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh và người Việt Bắc
+ Nỗi nhớ người được đem ra so sánh với nỗi nhớ trăng, nhớ núi, nắng chiều, nương rẫy, bản làng, bếp lửa, người thương…
– Bức tranh tứ bình (tiếp đến “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chug”)
+ Thiên nhiên, cuộc sống Việt Bắc hiện lên vừa thực vừa mộng, vừa thi vị vừa đơn sơ
+ Hình ảnh củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, tấm chăn sui đắp cùng là những hình thực của đời sống kháng chiến, gian khổ nhưng thấm đẫm tấm chân tình của đồng bào, của anh em đồng chí.
– Việt Bắc hào hùng chiến đấu và chiến thắng (đoạn còn lại)
+ Đoạn thơ chìm đắm sâu trong nỗi nhớ của cái tôi trữ tình về một Việt Bắc gian khó mà biết bao nghĩa tình.
+ Bức tranh thiên nhiên vừa thực vừa mộng, vừa thi vị vừa đơn sơ, đặc biệt là hình ảnh con người Việt Bắc mộc mạc, giản dị, nghĩa tình, thủy chung.
LĐ3: Đặc sắc nghệ thuật
3. Kết bài:
Tổng kết lại vấn đề
Bài văn tham khảo
Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị: Từ ấy, Ra trận, Việt Bắc, Gió lộng, Máu và hoa,…Trong đó, “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. “Việt Bắc” chính là khúc tình ca, khúc tráng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu đất nước, niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, truyền thống ân tình, ân nghĩa, đạo lí thủy chung của dân tộc Việt Nam.
Xuyên suốt toàn bộ bài thơ là một niềm hoài niệm lớn. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ đã tạo nên sắc thái tâm trạng đặc biệt xúc động, bâng khuâng, day dứt khôn nguôi của người đi kẻ ở. Đây là cuộc chia tay lịch sử của những người đã từng sống và gắn bó suốt 15 năm gian khổ mà biết bao nghĩa tình. Việt Bắc đã trở thành máu thịt của người cách mạng nên cuộc chia tay này là chia tay với chính lòng mình.
Nhà thơ rất khéo léo thể hiện ân tình, ân nghĩa ấy dưới hình thức đối đáp của hai nhân vật mình – ta đậm đà nghĩa tình của ca dao. Bên hỏi – bên đáp, người tỏ bày – kẻ hưởng ứng tưởng rất riêng tư nhưng lại hóa thành vấn đề lớn của dân tộc. Đó là mối quan hệ gắn bó, thủy chung của nhân dân Việt Bắc với Đảng, Bác Hồ và chiến sĩ cách mạng. Lời đối đáp uyển chuyển giao hòa thành lời đồng vọng trong tâm hồn mỗi người. Sáng tạo hai đại từ “mình – ta” là một thủ pháp nghệ thuật tài hoa, độc đáo của Tố Hữu. “Mình – ta” là sự phâm đối và thống nhất của chủ thể trữ tình. Mình là ta, ta là mình, là nhân dân kháng chiến, là chiến sĩ cách mạng.
Mở đầu bài thơ là những câu hỏi ngọt ngào của người ở lại hỏi người ra đi cho thấy tình nghĩa sâu nặng của cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc.
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không ?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Người ở lại như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay mà trong lòng biết bao trống vắng bâng khuâng. Tác giả sử dụng hai đại từ nhân xưng “mình – ta” một cách ngọt ngào sâu lắng thấm đậm chất ca dao. “Mình” là chỉ người ra đi, “ta” là chỉ người ở lại. Cụm từ “mười lăm năm” là trạng ngữ chỉ thời gian, chỉ độ dài gắn bó nhớ thương vô hạn giữa người đi kẻ ở. Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm giữa Việt bắc và người cán bộ thật chung thủy sâu nặng, keo sơn bền chặt. Câu hỏi tu từ “mình có nhớ không?”, hỏi ở đây không phải để tìm câu trả lời mà hỏi để nhắc nhở. Về Hà Nội rồi, thấy cây thì phải nhớ đến núi rừng chiến khu, thấy sông thì phải nhớ đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc này cho ta thấy được lời dặn dò kín đáo rất đỗi chân thành của người dân Việt Bắc.
Tế nhị và sâu sắc biết bao, nghe lời thiết tha của người ở lại, người ra đi chỉ biết cầm tay bối rối, bâng khuâng:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Một “tiếng ai” nghe bâng khuâng xao xuyến lạ lùng. Phải chăng tiếng “ai” kia là lời của người Việt Bắc với những chân tình tha thiết. Và nỗi niềm nặng tràn làm bồn chồn bước chân, không nỡ rời xa vì nơi ấy đã là quê hương, là máu thịt:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn
(Chế Lan Viên)
Việt Bắc trong giây phút chia ly ấy đã hóa tâm hồn trong lòng người cán bộ. Hai từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn” góp phần làm nên tâm trạng người ra đi. “Bâng khuâng” nghĩa là nhớ nhung luyến tiếc, vui buồn lẫn lộn, “bồn chồn” là từ láy diễn tả tâm trạng cảm xúc day dứt, hồi hộp, nôn nao trong lòng khiến cho bước chân đi cũng ngập ngừng, bịn rịn không muốn chia xa. “Áo chàm” là hình ảnh hoán dụ chỉ nhân dân Việt Bắc trong buổi tiễn đưa. Đó là những con người nghèo khổ “hắt hiu lau xám” nhưng luôn “đậm đà lòng son” thủy chung, mặn nồng. Chính màu áo ấy, con người ấy đã góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” mang đầy tính chất biểu cảm. “Cầm tay” là biểu tượng của tình yêu thương đoàn kết. Cầm tay đã đủ nói lên bao cảm xúc trong lòng rồi. Mặt khác, ba dấu chấm lửng đặt ở cuối câu như càng tăng thêm cái tình cảm mặn nồng ấy. Nó giống như nốt lặng trong một khuôn nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài và sâu lắng.
Nhịp thơ lục bát nhịp nhàng, âm điệu du dương tha thiết, diễn tả thần tình một thoáng ngập ngừng của tình cảm lúc chia xa, để tạo ra chuỗi câu hỏi vang lên dồn dập:
Mình đi có nhớ những này
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
…
Mình ơi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?
Mười hai dòng thơ là sáu câu hỏi của người ở lại khơi sâu vào những kỉ niệm về một chiến khu gian khó mà nghĩa tình, thủy chung. Sáu câu hỏi mà có tới 5 từ “có nhớ” điệp đi điệp lại. Hỏi là “có nhớ” nhưng thực đã biết rằng người đi đã nặng lòng với tất cả những gì gửi lại. Quên sao được những ngày “mưa nguồn suối lũ”, những ngày khó khăn gian khổ “miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”. Làm sao quên được Tân Trào, Hồng Thái – những địa danh đã đi vào sử sách của dân tộc. Nỗi nhớ vang lên gọi về bao kỉ niệm khiến người đọc không cảm thấy đây là cuộc phân li, mà là nỗi nhớ đã thắt chặt mọi người trong một hồi ức chung đẹp đẽ.
Bốn câu thơ cuối cùng của đoạn thơ là sự khẳng định mối tình bền chặt đó:
Ta về mình có nhớ ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…
Ta với mình, mình với ta hòa quyện, gắn bó, không có gì có thể chia cắt, nhất là lòng thủy chung, nghĩa tình sau trước “mặn mà đinh ninh”, vững bền như núi non, nước nguồn. Nhà thơ đã rất khéo léo khi lấy cái vô tận để diễn tả cái vô tận, nguồn bao nhiêu nước bấy nhiêu nghĩa tình.
Nhưng nếu ta chỉ nói về những kỉ niệm và lời thề hứa thì đoạn thơ không thể tạo thành cái ma lực quyến luyến làm thiết tha lòng người, mà cái ma lực phải là chất thơ. Chất thơ ở đây chính là nhạc điệu và cách sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt rất tài hoa của nhà thơ. Các câu lục bát rất chuẩn về luật, vần, cách ngắt nhịp đã làm cho những hoài niệm cùng cảm xúc ngân nga réo rắt, trầm bổng thấm sâu vào hồn người đọc.
Đoạn thơ là khúc hát ân tình, ân nghĩa của người kháng chiến, dù ở trong niềm vui hiện tại cũng không quên cội nguồn. Đó là truyền thống đạo lí đẹp đẽ của dân tộc. Đoạn thơ mang đậm phong cách nghệ thuật của Tố Hữu – chính trị mà trữ tình. Nói về sự kiện lớn của dân tộc mà ngôn ngữ giản dị, chí nghĩa chí tình, nên thơ, nên nhạc.
Qua sự hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng trên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
…
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Nhà thơ diễn tả nỗi nhớ về Việt Bắc như nhớ người yêu. Nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ da diết, nồng nàn nhất trong các cung bậc tình cảm của con người. Cái cường độ ấy được đem ra so sánh với nỗi nhớ trăng, nhớ núi, nắng chiều, nương rẫy, bản làng, bếp lửa, người thương…Tất cả cuộc sống, âm thanh, cảnh vật thật giản dị từng ngày, từng giờ đã thấm sâu vào tâm hồn nhà thơ. Chỉ những người đã từng sống và gắn bó máu thịt với Việt Bắc, coi Việt Bắc là quê hương thân thiết của mình mới có nỗi nhớ da diết, sâu sắc, thấm thía nhiều đến thế, nhất là khi phải chia xa thì không gian, cảnh vật quen thuộc hàng ngày bỗng hóa tâm hồn.
Thiên nhiên, cuộc sống Việt Bắc hiện lên vừa thực vừa mộng, vừa thi vị vừa đơn sơ. Cái đơn sơ và giản dị nhất cũng là cái đẹp và đáng nhớ nhất, đó chính là hình ảnh con người Việt Bắc.
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Hình ảnh củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, tấm chăn sui đắp cùng là những hình thực của đời sống kháng chiến, gian khổ nhưng thấm đẫm tấm chân tình của đồng bào, của anh em đồng chí. Song có một hình ảnh đáng nhớ và cứ trở đi trở lại trong thơ Tố Hữu cũng như thơ kháng chiến, đó là hình ảnh người mẹ:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Hình ảnh thơ mộng, giản dị như chính đời sống nguyên vẹn chảy vào thơ. Hình ảnh một người mẹ như bao người mẹ “nắng cháy lưng” vẫn địu con trèo đèo, vượt suối, “bẻ từng bắp ngô” nuôi con, nuôi cán bộ. Nhà thơ nói: “Nếu anh thờ ơ, bàng quang với cuộc sống thì anh chả thấy gì là thơ, là đời cả”. Đúng vậy, nếu trái tim ta không biết lắng nghe âm vang sự sống thì chẳng bao giờ ta biết rung động trước nỗi vất vả, niềm đau và cả hạnh phúc của con người. Ta chẳng thấy lưu luyến, gắn bó hay nhớ nhung khi xa rời những gì nhỏ bé nhất.
Từ nỗi nhớ cảnh, nhớ người Việt Bắc đầy yêu thương, nghĩa tình, mạch thơ được bắt sang những hoạt động của cơ quan cán bộ chiến sĩ chiến khu:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đồi.
Cái gian nan của đời sống cơ quan đã được nhà thơ nói nhiều trong cái gian nan của đồng bào Việt Bắc. Cái đáng nói là tiếng ca vang vọng trong gian khổ đó được toát lên từ chính cuộc sống giản dị, lặng lẽ hi sinh của đồng bào và chiến sĩ cách mạng. Bản thân cuộc sống là một bài ca bất tận, không gian nan, khổ ải nào ngăn cản được sự trong trẻo, tươi vui bất tận của nó. Đó là tinh thần lạc quan, yêu đời của người Việt Nam “tiếng hát át tiếng bom”. Hát để át gian nan, vượt lên khổ đau, nâng cao tâm hồn ta thêm phong phú.
Cả đoạn thơ vẫn chìm đắm sâu trong nỗi nhớ của cái tôi trữ tình về một Việt Bắc gian khó mà biết bao nghĩa tình. Vẫn thể thơ lục bát giàu nhạc điệu, kết hợp với cách lựa chọn từ ngữ và hình ảnh giàu chất gợi cảm, nhà thơ đã mang đến cho người đọc một bức tranh thiên nhiên vừa thực vừa mộng, vừa thi vị vừa đơn sơ, đặc biệt là hình ảnh con người Việt Bắc mộc mạc, giản dị, nghĩa tình, thủy chung.
Có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hòa quyện thắm thiết giữa cảnh và người, nhất là ấn tượng không thể phai mờ về con người Việt Bắc cần cù trong lao động, thủy chung trong tình nghĩa:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chug.
Đây là bức tranh tứ bình được đánh giá là đẹp nhất về Việt Bắc bao quát cả bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, tràn ngập sắc màu, âm thanh, hình ảnh. Tất cả đều diễn tả một cuộc sống tươi đẹp, tưng bừng, chan hòa và ân tình. Trong kí ức của nhà thơ, của người cách mạng, Việt Bắc không chỉ là một vùng đất nghèo khó và thiên nhiên khắc nghiệt “mưa nguồn suối lũ”, mà Việt Bắc còn là một vùng đất thơ mộng, một bức tranh tươi sáng đầy hấp dẫn và thi vị.
Mở đầu đoạn thơ, vẫn những câu hỏi lặp đi lặp lại “mình có nhớ ta”, còn ta “ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Cảnh và người hòa quyện vào nhau trong mỗi cặp câu. Đoạn thơ có một điểm rất đặc biệt, các câu sáu diễn tả nỗi nhớ cảnh, các câu tám lại diễn tả nỗi nhớ người, nhịp nhàng, đều đặn nhưng mỗi cặp câu lại mang một sắc thái riêng.
Trước hết về cảnh, bốn câu sáu mỗi câu một mùa, mỗi mùa một vẻ đẹp, đặc trưng riêng. Mùa đông hoa chuối đỏ tươi nổi bật trên nền thảm xanh bao la, bát ngát của núi rừng. Mùa xuân, cảnh Việt Bắc đẹp như mộng bởi hoa mơ phủ trắng không gian bao la của núi rừng. Mùa hạ, tiếng cầm ve râm ran trong bản giao hưởng giữa trưa hè mà cảm giác như đổ vàng cả rừng phách. Cuối cùng là mùa thu – mùa của hòa bình, độc lập với trăng thanh, gió mát, trong trẻo dịu hiền khiến cảnh núi rừng càng trở nên thơ mộng.
Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên không chỉ trải rộng bốn mùa mà còn có cả ngày và đêm, trăng và hoa, màu sắc và âm thanh sông động chứ không tĩnh tại. Có người đánh giá rằng: thiên nhiên trong đoạn thơ này đẹp như bức tranh tứ bình của hội họa phương Đông. Mùa nào cũng đẹp, cũng đáng yêu. Mỗi mùa là một bức tranh cổ điển mà rất hiện đại.
Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc đẹp, sống động bởi có sự hoạt động của con người: “Đèo cao nắng ánh dao gàn thắt lưng / Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Cảnh đẹp là để tôn nổi con người – con người lao động bình dị, chăm chỉ, cần cù. Nhà thơ nói: “Nếu không có những con người ấy, không có cuộc sống lao động yên bình ấy thì không thể cảm thấy cảnh vật kia đẹp đẽ dường vậy. Vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của cảnh vật hòa quyện lẫn với nhau, tôn lên lẫn nhau. Đó là sự gắn bó không rời của con người của con người với mảnh đất quê hương”. Trong nỗi nhớ của nhà thơ, cuộc sống Việt Bắc, con người Việt Bắc hiện lên như thế, giản dị, tưng bừng, đâu cũng có cảnh đẹp, đâu cũng có con người ân tình, ân nghĩa, chia ngọt sẻ bùi, cùng chung mối thù nặng vai và chính họ là một trong những lực lượng làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Đó là nỗi nhớ sâu đậm, nỗi nhớ tri ân mang tính nhân văn cao cả.
Đoạn thơ thể hiện đậm đà phong cách nghệ thuật Tố Hữu, trữ tình, sâu lắng, tha thiết ân tình qua thể thơ lục bát cổ điển mà hiện đại. Tiết tấu nhịp nhàng, ngân nga dìu dặt, vừa thắt buộc, vừa mới mẻ lạ lùng. Sử dụng đại từ “mình – ta” kết hợp với điệp từ “nhớ” theo cấp độ tăng tiến thể hiện những rung động chân thật, mặn mà, thắm thiết của nhà thơ đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Nhớ về Việt Bắc, không chỉ có sự sẻ chia, ân tình giữa người với người, không chỉ có thiên nhiên tươi đẹp tô điểm cho cuộc sống kháng chiến mà nơi ấy còn là những kỉ niệm chiến đấu và chiến thắng hào hùng:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng thắng Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta là cuộc kháng chiến trường kì gian khổ, chín năm với bấy nhiêu ngày con người và thiên nhiên đã kề vai sát cánh bên nhau “ta cùng đánh Tây”. Rừng trở thành thiên la địa võng “rừng vây quân thù”. Bởi, rừng là của ta, là sức mạnh quê hương. Sự đối lập mạnh mẽ giữa “mênh mông bốn mặt sương mù” với “một lòng” nhằm nhấn mạnh sự “đồng lòng” trong kháng chiến. Cái “lũy sắt dày” hay “bốn mặt sương mù” không chỉ hiểu theo nghĩa đen là hình tượng thiên nhiên mà nó còn được hiểu như trận địa của lòng dân, của đất trời, sông núi Việt Bắc nói chung.
Cuốn theo dòng hồi tưởng, nhà thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu. Một không gian rộng lớn được mở ra với những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên, con người Việt Bắc cùng sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân.
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Cả khổ thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng vẻ một sử thi hiện đại. Chỉ vài nét khắc họa, Tố Hữu đã cho thấy khí thế vô cùng mạnh mẽ của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì độc lập, tự do. Các từ láy gợi lên những hình ảnh âm thanh ấn tượng khiến người đọc như thấy được sự hối hả, rầm rập, mạnh mẽ, oai hùng của đoàn quân tiếp nối nhau ra trận. Hình ảnh quân đội hùng dũng, kiêu hãnh nhưng cũng vô cùng lãng mạn khi đi dưới trời sao. Ánh sao lấp lánh đầu súng khiến người đọc liên tưởng đến câu thơ của Chính Hữu: “Đầu súng trăng treo”. Những câu thơ giàu chất tạo hình,vừa hiện thực, vừa lãng mạn càng làm đẹp đẽ, mạnh mẽ hơn cho bức phù điêu điệp trùng, hùng vĩ của Việt Bắc kháng chiến.
Toàn đoạn thơ, mỗi hình ảnh, từ ngữ đều nhằm làm nổi bật tính chất anh hùng của quân đội ta. Anh hùng, kiêu hãnh, đạp bằng gian nguy để tiến lên phía trước. Cái khí phách ấy được dồn nén ở câu thơ: “Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”. “Bước chân nát đá” vừa thần thoại hóa sức mạnh của con người, vừa phô trương mạnh mẽ chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại Hồ Chí Minh. Bước chân của những người khổng lồ đội trời đạp đất làm nên chiến thắng kì diệu: “Lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”. Từ đây cho thấy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên.
Vẫn cảm hứng lãng mạn, hào hùng, ý thơ phóng xa vào viễn cảnh tương lai tươi sáng:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Hình ảnh đối lập “thăm thẳm sương dày/ đèn pha bật sáng” diễn tả cảm hứng tự hào về một tương lai tươi sáng của cuộc kháng chiến trường kì gian khổ. Dù hôm nay và cả nghìn đêm đã qua, dân tộc đã chìm trong máu lửa thăm thẳm đau thương, tăm tối của chiến tranh và đói nghèo thì ngày mai, nhất định chúng ta sẽ chiến thắng. Cuộc đời mở rộng tươi sáng như ánh sáng của ánh đèn pha đang chiếu rọi vào bóng tối, xua đi màn đêm mở đường cho xe ta ra trận.
Những câu thơ cuối bài chính là khúc ca khải hoàn về chiến thắng:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa bình Tây Bắc, Điện Biên vui cùng
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, Đèo De, núi Hồng.
Niềm vui chiến thắng tràn ngập khắp mọi miền Tổ Quốc. Cũng là một thủ pháp liệt kê nhưng những địa danh ở đây không gắn với chữ “nhớ” như ở những dòng thơ mở đầu của Việt Bắc mà gắn với những chữ “vui” để thấy tin vui đang bay lên từ khắp trăm miền. Sự liệt kê các địa danh chiến thắng cũng chứa đựng những giá trị tư tưởng – nghê thuật. Đó là sự sắp xếp nhằm nổi bật tin vui kháng chiến miêu tả không khí chiến thắng đang dồn dập trên khắp cả nước.
Thành công của bài thơ là ở nghệ thuật biểu hiện đậm đà tính dân tộc, phát huy được nhiều thế mạnh của thể lục bát truyền thống, rất uyển chuyển, có khả năng lột tả thực những tình cảm dịu dàng, thắm thiết, phù hợp với nội dung cần biểu đạt. Cấu tứ bài thơ là cấu tứ ca dao với hai nhân vật “mình – ta” đối đáp trong cuộc chia tay dường như tưởng như rất thiêng liêng của tình yêu đôi lứa, nhưng đó lại là tình cảm lớn của người đi kẻ ở, của đồng bào Việt Bắc và cán bộ, chiến sĩ cách mạng và của chính nhà thơ.
Tóm lại, với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại. Tất cả đã tạo ra một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha, êm ái ngọt ngào như âm hưởng lời ru đưa ta vào thế giới của những kỉ niệm và tình nghĩa thủy chung. Việt Bắc chính là tiếng hát ân tình, là truyền thống đạo lí của dân tộc ta.
Nguyễn Thị Thu Huyền