[Văn mẫu học sinh giỏi] Phân tích vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Dàn ý chi tiết
A. Mở bài
– Truỵện Kiều là kiệt tác của Nguyễn Du, tác phẩm đạt đến đỉnh cao về cả nội dung và nghệ thuật.
– Đoạn thơ miêu tả 2 chị em Thúy Kiều xưa nay vẫn được coi là mẫu mực của bút pháp miêu tả chân dung nhân vật.
B. Thân bài
1. Giới thiệu chung về vị trí đoạn thơ
– Nằm trong phần đầu của tác phẩm truyện Kiều- “Gặp gỡ và đính ước”
– Đoạn trích miêu tả bức chân dung của 2 chị em Thúy Kiều Thúy Vân. Qua đó dự báo số phận của từng nhân vật.
– Đoạn thơ là bức chân dung hoàn chỉnh chặt chẽ, chứng tỏ bút pháp cổ điển điêu luyện:
+ 4 câu đầu vẻ đẹp chung của hai chị em Thúy Kiều.
+ 16 câu tiếp theo miêu tả vẻ đẹp riêng của Thúy Vân và tài sắc Thúy Kiều
+ 4 câu cuối đức hạnh, phong thái của chị em Thúy Kiều.
2. Phân tích :
2.1. Vẻ đẹp chung của hai chị em Thúy Kiều (Bốn câu đầu.)
– Giới thiệu chung về hai chị em trong gia đình, lời giới thiệu cổ điển, trang trọng, họ là “tố nga”, đẹp và trong sáng:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”.
– “Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”
+“Mai cốt cách”:là cốt cách của mai: hình mảnh mai, sắc rực rỡ, hương quý phái.
+“ tuyết tinh thần”: là tinh thần của tuyết: trắng trong, tinh khiết, thanh sạch
->Bút pháp ước lệ, hình ảnh AD, 2 vế đối nhau câu thơ trở nên tao nhã gợi cảm, âm điệu nhịp nhàng nhấn mạnh sự đối xứng làm nổi bật vẻ đẹp cân đối hoàn hảo đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh tao, trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều: Vóc dáng mảnh mai, tao nhã như mai; tâm hồn trắng trong như tuyết. => Đó là vẻ đẹp hài hòa đến độ hoàn mĩ cả hình thức lẫn tâm hồn, cả dung nhan và đức hạnh.
– Hai chị em đều tuyệt đẹp, “mười phân vẹn mười”, song mỗi người lại mang nét đẹp riêng khác nhau “mỗi người một vẻ”.
2.2. Vẻ đẹp nhan sắc của Thúy Vân (4 câu tiếp)
– “Vân xem trang trọng khác vời” đã giới thiệu khái quát vẻ đẹp của Thúy Vân:một vẻ đẹp cao sang, quí phái
– Bút pháp ước lệ tượng trưng, phép ẩn dụ, nhân hoá: “khuôn trăng”, “nét ngài”, “hoa cười ngọc thốt, “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
-> Vẻ đẹp của Thúy Vân là vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu; tính cách đoan trang, thùy mị: khuôn mặt đầy đặn, tươi sáng như trăng đêm rằm;lông mày sắc nét như mày ngài; miệng cười tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà là những lời hoa tiếng ngọc. Mái tóc của nàng đen mượt hơn mây, da trắng mịn màng hơn tuyết.
– Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên – một vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh.
-> ND vừa miêu tả nhan sắc đã cho thấy số phận nhân vật: “ Mây thua..; tuyết nhường…” tạo hóa “ thua” và “ nhường” nên con người này sinh ra để được hưởng hạnh phúc êm đềm. Dự báo về một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ.
2.2. Vẻ đẹp tài sắc của Thúy Kiều (12 câu tiếp)
– “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Từ “càng”đứng trước hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”, “mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
– Nhan sắc :
“Làn……sơn”
->Bằng bút pháp ước lệ, phép ẩn dụ t/g điểm xuyết một đôi nét dung nhan khiến T.Kiều hiện lên rạng rỡ :
+ “làn thu thủy”: đôi mắt long lanh, linh hoạt như làn nước mùa thu gơn sóng.
+ “ nét xuân sơn”: nét mày thanh thản tươi xanh mơn mởn đẹp như dáng núi mùa xuân tươi trẻ.
– “Hoa ghen, liễu hờn”: Với vẻ đẹp của Vân thiên nhiên chẳng đố kị mà chịu thua, chịu nhường còn với vẻ đẹp của Kiều “ hoa ghen”, “ liễu hờn” đố kị.
->Vẻ đẹp của Kiều gây ấn tượng là một trang tuyệt sắc.
– Tài năng
– “Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”
-> tố chất thông minh do trời phú, tài làm thơ, vẽ tranh, ca hát, đánh đàn đều đến mức điêu luyện
+ Tài đánh đàn: thể hiện qua từ ngữ “ làu , ăn đứt” những từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối, Thúy Kiều thông minh và rất mực tài hoa.
+ Soạn khúc: “ bạc mệnh oán” Tâm hồn đa sầu, đa cảm, phong phú. khúc nhạc dự đoán cho số phận đau khổ, bất hạnh của Kiều sau này.
– Những câu thơ miêu tả nhan săc, tài năng dự đoán số phận thể hiện quan niệm
– “ thiên mệnh” của nho giáo, thuyết “tài mệnh tương đố” của N.Du
=> Kiều đẹp quá, tài hoa quá, hoàn hảo quá nên không thể tránh khỏi “ hồng nhan bạc mệnh”.
– 16 câu tả vẻ đẹp cảu hai chị em Kiều gần như đầy đủ vẻ đẹp của người phụ nữ theo quan niệm xưa: công – dung – ngôn – hạnh. Tài ấy thể hiện cả ở tả tình, tâm hồn của nhân vật và dự báo số phận nhân vật
2.3. Đức hạnh và phong thái của hai chị em Kiều.
– Cuộc sống “êm đềm”, “ phong lưu” “tường đông ong bướm đi về mặc ai”: khuôn phép, đức hạnh mẫu mực.
– đoạn cuối: khép lại bức chân dung của hai nàng Kiều đồng thời khép lại toàn đoạn trích khiến nó thêm chặt chẽ với t/p, với số phận từng nhân vật. Vân êm ái, Kiều bạc mệnh
3. Đánh giá:
– Về NT:
+ Cách miêu tả khắc họa tính cách nhân vật của ND rất tinh tế( m.tả hai vẻ đẹp khác nhau – thấy rõ sự khác biệt)
+ Dùng thủ pháp cổ điển m.tả ước lệ tượng trưng( mai..khuôn trăng..ngọc thốt..tuyết..hoa cười.)
+Sử dụng điển cố … nhưng mức độ cho từng nhân vật khác nhau, các chi tiết khác nhau
+ Sử dụng miêu tả khái quát cũng biến hóa, uyển chuyển tạo hứng thú với chân dung từng n/v
+Nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo, đặc biệt là những từ có giá trị gợi tả cao.
– Về ND
Họ đều là tuyệt thế giai nhân: trẻ, ngây thơ, trong trắng, mỗi người một vẻ hấp dẫn lạ lùng (Vân đẹp đoan trang, trang trọng, Kiều đẹp sắc sảo mặn mà). Miêu tả vẻ đẹp chung, vẻ đẹp riêng gắn liền với dự báo về số phận của từng nhân vật
C. Kết bài
– Đoạn trích là những vần thơ tuyệt tác trong Truyện Kiều bởi: Cái tài, cái tâm của N.Du thật đáng kính nể.
– Mỗi chữ mỗi lời trong đoạn thơ đều ẩn chứa niềm thương yêu tôn quý con người.Tinh thần nhân văn cao quý khiến truyện Kiều trở nên bất tử.
Phân tích vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều
Bài văn tham khảo
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du vốn được coi là kiệt tác, là niềm tự hào của cả dân tộc. Thi phẩm đạt đến đỉnh cao cả về giá trị nội dung và nghệ thuật. Đoạn trích miêu tả hai chị em xưa nay vẫn được coi là mẫu mực của bút pháp miêu tả chân dung nhân vật. Chiêm ngưỡng bức họa về hai nhân vật, người đọc cũng dự cảm những gì đang chờ đón họ trong tương lai.
Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” thuộc phần: “Gặp gỡ và đính ước”, sau phần giới thiệu gia cảnh gia đình Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy những hình ảnh thiên nhiên để gợi, tả, khắc hoạ vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân.
Trước hết, Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp bao quát của hai chị em Thuý Kiều trong bốn câu đầu:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười.
Nhà thơ dùng từ Hán Việt “tố nga” chỉ những người con gái đẹp, trong trắng để gọi chung hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều. Hai chị em được ví von có cốt cách thanh cao như hoa mai, có tâm hồn trong sáng như tuyết trắng. Mỗi người có vẻ đẹp riêng và đều đẹp một cách toàn diện.
Từ cái nhìn bao quát ấy, nhà thơ đi miêu tả từng người. Bằng nghệ thuật ước lệ tượng trưng, liệt kê, nhân hoá, tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp trang trọng, quý phái, phúc hậu:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Bằng nghệt thuật ước lệ truyền thống nhưng nhan sắc của nàng Thúy Vân hiện lên thật cụ thể: Khuôn mặt xinh tươi, trẻ trung, sang ngời, rạng rỡ như ánh trăng đêm rằm, long mày cong như râu ngài, nụ cười tươi tắn, xinh đẹp như hoa, lời nói đoan trang, trong trẻo như tiếng ngọc, mái tóc, bồng bềnh, mềm mại hơn mây, còn làn da thì trắng mịn hơn tuyết. Vẻ đẹp của Thuý Vân có sự hoà hợp với tự nhiên, như ngầm dự báo trước tương lai êm ấm, bình lặng trong cuộc đời nàng.
Tác giả dùng thủ pháp đòn bẩy, tả Thuý Vân trước rồi mới tả Thuý Kiều. Vân đã đẹp đến mức hoàn hảo, Kiều lại vượt lên trên cả sự hoàn hảo ấy. Từ “càng” kết hợp với các tính từ “sắc sảo”, “mặn mà” để nhấn mạnh vẻ đẹp đạt đến tuyệt đích của nàng Kiều. Lời thơ có thể hieur nàng có trí tuệ thông minh, sắc sảo, và vẻ đẹp mặn mà, đằm thắm. Đặc biệt, vẻ đẹp ấy thể hiện qua đôi mắt “làn thu thuỷ nét xuân sơn”. Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt Kiều trong sáng, long lanh, sống động, sâu thẳm như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú, mềm mại, trẻ trung như nét núi mùa xuân. Nếu vẻ đẹp của Thuý Vân được thiên nhiên tạo hoá sẵn sàng nhường nhịn thì với Thuý Kiều, vẻ đẹp ấy lấn át cả thiên nhiên, khiến cho thiên nhiên phải đố kị, hờn ghen:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn,
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Nếu như nhan sắc của Thuý Kiều không ai sánh bằng thì tài năng của nàng may ra mới có người thứ hai.
“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai,
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm”
Có trí thông minh trời phú nên tất cả những môn nghệ thuật: thi hoạ, ca ngâm, nàng đều rất thành thạo, đặc biệt là tài gảy đàn: “Cung thương làu bậc ngũ âm”. Nàng không chỉ giỏi về âm luật mà còn biết sáng tác. Khúc nhạc “Bạc mệnh” mà nàng sáng tác làm cho người nghe phải đau lòng, rơi lệ. Khúc nhạc sầu não ấy là tiếng nói của tâm hồn đa sầu, đa cảm hay là dự cảm của nàng về tương lai, số phận chính mình.
Như vậy, vẻ đẹp của Thuý Kiều là sự kết hợp giữa sắc – tài – tình. Chính vẻ đẹp ấy cũng ngầm dự báo một số phận không êm đềm, bình lặng như Thuý Vân, mà đầy trắc trở, éo le.
Những câu thơ cuối khái quát về cuộc sống đức hạnh của chị em Thuý Kiều:
“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Hai chị em sống trong môi trường gia giáo, nề nếp, vì thế nên dẫu có sắc đẹp và tài năng tuyệt đỉnh, hai nàng tránh xa những chuyện thị phi ong bướm ngoài đời, giữ gìn khuôn phép, phẩm hạnh.
Đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” đã tái dựng tài tình chân dung hai trang tuyệt sắc giai nhân Thuý Vân, Thuý Kiều bằng nhiều biện pháp ẩn dụ, tượng trưng, hình ảnh ước lệ, từ ngữ trong sáng, giàu sức gợi. Qua chân dung hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều, nhà thơ Nguyễn Du đã bộc lộ thái độ trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ. Đó chính là một trong những biểu hiện rõ nét của tư tưởng nhân đạo Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”.
Mila